
Ảnh minh họa.
Tính chung 7 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 39,68 tỷ USD, tăng 14,7%. Giá trị xuất siêu nông, lâm, thủy sản đạt 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước.
Trong cơ cấu mặt hàng, nhóm nông sản tiếp tục dẫn đầu với giá trị xuất khẩu ước đạt 21,49 tỷ USD (tăng 17%), tiếp đến là lâm sản đạt 10,38 tỷ USD (tăng 8,6%), thủy sản đạt 6,06 tỷ USD (tăng 13,8%), sản phẩm chăn nuôi đạt 339,2 triệu USD (tăng 22,1%).
Châu Á tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 42,6% tổng giá trị. châu Mỹ và châu Âu lần lượt chiếm 23,3% và 15,1%. Mặc dù thị phần nhỏ hơn, song châu Phi và châu Đại Dương có tốc độ tăng trưởng mạnh, đạt lần lượt 88,9% và 4,4%. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu sang châu Âu tăng tới 43,1% so với cùng kỳ.
Về thị trường cụ thể, ba đối tác lớn nhất là Hoa Kỳ (chiếm 21% thị phần), Trung Quốc (18,4%) và Nhật Bản (7,2%). Trong số đó, xuất khẩu sang Nhật Bản tăng mạnh 23,6%, Hoa Kỳ tăng 12,1% và Trung Quốc tăng 3,6%.
Trong 7 tháng, nhiều mặt hàng chủ lực ghi nhận tăng trưởng tích cực. Việt Nam xuất khẩu 1,1 triệu tấn cà phê, đạt 6 tỷ USD, tăng 7,6% về lượng và 65,1% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân đạt 5.672 USD/tấn, tăng hơn 53%. Đức, Italy và Tây Ban Nha là các thị trường tiêu thụ lớn nhất. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu cà phê sang Mexico tăng gấp 88 lần.
Cao su xuất khẩu đạt 893.800 tấn với giá trị 1,61 tỷ USD, giảm nhẹ về lượng nhưng tăng 13,9% về giá trị nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 16,3%. Trung Quốc tiếp tục là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất với 69,3% thị phần.
Khối lượng xuất khẩu hạt điều đạt hơn 409.000 tấn với giá trị 2,79 tỷ USD, dù giảm 3,3% về lượng nhưng tăng 17,4% về giá trị, nhờ giá xuất khẩu tăng 21,4%. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Hà Lan là ba thị trường chính.
Tương tự, hạt tiêu xuất khẩu đạt hơn 145.000 tấn, đạt gần 1 tỷ USD, giảm 11,6% về lượng nhưng tăng gần 30% về giá trị nhờ giá bình quân tăng gần 47%. Xuất khẩu sang Anh tăng gấp đôi, trong khi giảm tại UAE.
Về xuất khẩu gạo, dù lượng xuất khẩu đạt 5,5 triệu tấn (tăng 3,1%), giá trị xuất khẩu gạo chỉ đạt 2,81 tỷ USD (giảm 15,9%) do giá gạo giảm mạnh 18,4% so với cùng kỳ. Philippines là thị trường tiêu thụ lớn nhất, chiếm 42,6% thị phần. Xuất khẩu gạo sang Bờ Biển Ngà tăng gần gấp đôi, trong khi giảm mạnh ở Malaysia.
Xuất khẩu rau quả 7 tháng đạt 3,92 tỷ USD, tăng nhẹ 0,9%. Trung Quốc là thị trường lớn nhất, chiếm hơn 52% thị phần, nhưng giá trị xuất khẩu giảm 24,3%. Trong khi đó, xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng tới 65,5%.
Cán cân thương mại nông, lâm, thủy sản Việt Nam 7 tháng năm 2025 ước đạt thặng dư 11,52 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo nhóm hàng, lâm sản, thủy sản và nông sản là 3 nhóm hàng có cán cân thương mại ở trạng thái thặng dư. Cụ thể, nhóm lâm sản ước đạt thặng dư 8,39 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2024; nhóm thủy sản thặng dư 4,18 tỷ USD, tăng 7,5%; và nhóm nông sản thặng dư 4,28 tỷ USD, tăng 33,4%.
Có 6 mặt hàng nông, lâm, thủy sản có thặng dư thương mại đạt trên 1 tỷ USD gồm: gỗ và sản phẩm gỗ thặng dư 7,7 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; cà phê 5,78 tỷ USD, tăng 66%; rau quả 2,47 tỷ USD, giảm 7,1%; tôm 2,08 tỷ USD, tăng 16,3%; gạo 1,81 tỷ USD, giảm 30%; cá tra 1,11 tỷ USD, tăng 8,3%.
Tuy nhiên, cũng có 5 mặt hàng có thâm hụt thương mại gồm: thức ăn gia súc và nguyên liệu thâm hụt 1,89 tỷ USD, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm trước; bông các loại 1,88 tỷ USD, tăng 10,1%; chế phẩm từ sản phẩm trồng trọt 1,72 tỷ USD, giảm 6,3%; ngô 1,29 tỷ USD, giảm 5,4%; thịt, phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật 917,7 triệu USD, tăng 10,4%.